Wednesday, July 30, 2008

Phải có cái tâm, cái tuệ và cái hành, mới mong nói chuyện giải quyết vấn đề lớn nông nghiệp, nông thôn, nông dân nước ta

Lâm Võ Hoàng

Tuy tách bạch như trên, nhưng ba cái “nông” đó chỉ là “ba trong một”, một nghiệp chướng duy nhất. Do vậy giải quyết được một cái, là giải quyết luôn hai cái kia. Cũng như đuổi được ngoại xâm là có liền độc lập và hòa bình. Như nước ta có được độc lập và hòa bình thì con đường phát triển được mở rộng ra, cũng như ông táo luôn luôn phải có ba cái đầu mới chịu đỡ nổi nồi cơm.

Nói “nghiệp chướng” như trên, không phải tự nghề nông sinh ra, mà là do các thành phần xã hội khác (sĩ, công, thương) hè nhau gây ra cho nghề nông. Mặc dù những thành phần này đa số đều xuất thân từ nông thôn mà ra, rồi “phú quý sinh lễ nghĩa”, vô tư coi thường, coi nhẹ nguồn cội của mình, cũng như có khi bắt chước người nước ngoài, tấm tắc ca ngợi sự phồn vinh, tập trung ở đô thị của mình, để quên lãng nông thôn, thậm chí “ăn hiếp” vô tội vạ nông thôn, khi đã dám cả gan thu hồi đất trồng giống gạo cao sản độc đáo (tương tự như đất trồng lúa nếp độc đáo của làng Vòng ngoài Bắc) để làm sân gôn cho tây và người sính tây giải trí. Làm như khi gặp đói kém có thể cạy đất sân gôn đỡ dạ được ! Hoặc tang thương hơn, dụ dỗ nông dân bán đất làm khu công nghiệp, để con cháu có thể xin vào làm công nhân đỡ cực hơn cày cấy, rốt cuộc nông dân bị lùa hàng đoàn ra “chợ thất nghiệp”, sống chết không ai hay.

Nông nghiệp, nông dân là đứa em ngờ nghệch trong nhà chung. Các anh chị khôn ngoan, có hoàn cảnh tốt hơn được sống ở đô thị, thay vì giúp đỡ em út (và cả ông bà nữa) thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn, có mức sống khả quan. Như bên Nhật, có cuộc sống nói chung ấm no nhưng còn có đầu óc biết suy nghĩ, cố gắng giữ nghề nông bằng mọi giá, vì là cái nôi của truyền thống sức mạnh dân tộc, để cho mai sau còn có chỗ tựa để giữ vững cái “Nhật bản tính” đặc thù, độc đáo, luôn giữ vững vị trí đệ nhị hùng cường kinh tế công nghiệp, tài chánh toàn cầu, so với anh Trung Quốc to lớn, vẫn luôn ở kèo trên.

Nước ta, là nước nông nghiệp dưới thời quân chủ, giai cấp sĩ (có học) chỉ là lớp kem nổi trên sữa, ra làm quan rồi cũng về quê dưỡng già và chết. Từ đó là nguồn gốc và nôi phát sinh mọi cơ chế tồn tại, sinh hoạt và phát triển của đất nước, chỉ có một lõm thực sự đô thị là Tràng An, tức là Hà Nội, nhưng vẫn bén rễ ở quê, để có chỗ để nương tựa khi thất thế trong xã hội, hay thậm chí gia đình và để chết an nhàn. Bằng cớ là cho tới nay, không kể lưu dân kiếm sống, phần đông gia đình ở đô thị lớn (vì đô thị nhỏ đã sát sàn sạt với thôn quê) đều vất vả mua vé xe tàu để về quê ăn tết.

Nhưng do đâu, hiện nay, nông nghiệp, nông thôn và nông dân trở thành đề tài bức xúc, trăn trở, không ngớt quan tâm của đất nước ? Đến đỗi, cơ quan tối cao của Đảng phải động não tìm ra giải pháp cấp bách ? Tất nhiên, mục đích yêu cầu, phương hướng giải quyết, các biện pháp thực hiện, với sự đóng góp chí tình của các chuyên gia liên ngành, đã được đề ra có ý nghĩa và giá trị. Nhưng mà sau khi coi lại, vẫn cứ thấy còn xa xăm diệu vợi như bấy nay. Chẳng qua là chúng ta bằng lòng với những cái “cần” được nêu ra, mà quên rằng những cái “cần” ấy là đúng đấy, nhưng nếu “cóc có”, thì làm sao đây ? Chẳng hạn như giao nhiệm vụ chiến lược sinh tử này cho ai, theo chức năng, thì một mặt họ nhận liền (nếu không giẫy nảy), nhưng kế đó giao lại cho cấp dưới (quán tính thâm căn cố đế của mình mà !) riết cho tới lớp dưới cùng, vấn đề vẫn sẽ “vũ như cẩn”.

Bởi vì vấn đề cơ bản tùy thuộc ở những yếu tố “đủ”, tức là nếu tìm ra được ai có thể tin tưởng vào cái tâm biết yêu thương nông dân, nông nghiệp, để có thể bền chí, quyết tâm làm cho kỳ được nhiệm vụ mới, bất kể kích bác, đòi bỏ tù, tòa án binh… như ở quân khu 9 lúc phải thực hiện Hiệp ước Genève đã dám nghĩ khác hơn Trung Ương là xác tín rằng đối phương sẽ phá Hiệp ước cho nên cả quân khu phải bảo tồn lực lượng cho tình huống đó, chớ không đơn giản ca hát, sắm sửa, xuống tàu Pháp về Bắc (như hồi ký xuất sắc đăng trên báo Pháp Luật Tp. HCM mới đây). Nhất là đối với người công giáo luôn xác tín tình yêu hiện thân trong Chúa Kitô là sức mạnh, nhân tố sáng tạo trời đất. Cho nên người nông dân phải quên hết những quyền lợi, đặc lợi nhỏ nhen của mình mà nâng tầm yêu thương chính mình cũng đang thất thế đấy, các thế hệ con cháu của họ cần phải thoát cái lầm lụi của họ hiện nay và các đồng cảnh khác đang lặn hụp như họ để chỉ kiếm miếng sống hằng ngày ở ngoài Bắc cũng như trong Nam, để cùng với các thành phần khác của xã hội và nhất là với sự sáng suốt yêu thương nhân dân của nhà nước coi cái việc cầm quyền của mình là để nâng đỡ người đồng bào thất thế bất cứ vì nguyên nhân nào, hơn là nghe lời đường mật của các phần tử chỉ lo làm giàu cho mình bằng cách hù dọa tai biến, thiếu gạo ăn, tự tách mình ra khỏi tuyệt đại bộ phận bị bóng râm che lấp ánh sáng mặt trời, như gần đây họ thuyết phục nhà nước cấm xuất khẩu gạo, trong khi giá gạo thế giới đang tăng lên vùn vụt và tồn kho gạo trong nước mà họ cho là của họ còn khả quan, khiến cho giá gạo trong nước leo thang máy lên vùn vụt cho tới khi giá thế giới ổn định lại, mới cho xuất khẩu lại, với hậu quả là nông dân đồng bào ta “mất ăn” phần giá gạo tăng lên hồi trước, đánh mất phần bù lỗ cho giá vật tư nông nghiệp tăng khiếp vía mà chẳng thấy ai lo chi hết.

Họ là ai ? Chắc chắn không phải xuất thân từ thành thị mà từ nông dân, nông thôn mà ra nhờ được lý lịch trong sáng, cầm chầu, cầm chịch trong ngành lúa gạo, mà lại thiếu cái tâm và cái tuệ nữa, nói chi cái hành mà họ như nước chảy bèo trôi, khiến cho đồng bào bà con của gia đình họ phải chịu thiệt thòi oan uổng, khi tới mùa gieo trồng, còn mải ôm lúa cũ, không có tiền mua vật tư làm mùa cho dù giá gia tăng khủng khiếp. May trời thương cho mưa thuận gió hòa, nên không bị tai hại về mặt đó.

Họ khống chế cái “nhìn” của nhà nước đến đỗi các chuyên gia nông nghiệp phải kêu gào nhà nước cúi xuống nghe nông dân hơn là nghe “trung gian mất cơ sở” cứ lo nhậu và tăng hai, nên hết nghe tiếng rên siết của ai.

Chuyện lúa gạo nói chung, kinh doanh lúa gạo thặng dư nói riêng, rất là khó, không phải tự thân vấn đề khó mà khó vì thành phần đối tác chủ yếu là nông dân, đã dốt nát mà còn nghèo nàn, chỉ làm con mồi bóc lột cho các thành phần trung gian, từ hàng xáo, thương gia thu mua lúa gạo, lực lượng chuyên chở, xay xát, điều chế gạo theo tiêu chuẩn quốc tế ghi trong hợp đồng xuất khẩu, rồi ngân hàng cấp tín dụng cho các thành phần tham gia các giai đoạn nói trên, rồi nhà xuất khẩu đưa gạo ra bán ở ngoài và ngân hàng trung gian thu hồi tiền bán. Mỗi giai đoạn đều có bất trắc riêng mà nông dân, thậm chí các thương gia thu mua khó lòng biết, từ đó “dùi đánh đục, đục đánh săng” cho tới nông dân thì thành… cốm dẹp.

Nói cho ngay, các giai đoạn trên kia không thể đi tắt. Cho nên vấn đề là kiếm cho được một đầu mối tổng hợp tâm, có tuệ, và có hành như nói trên để làm cho trôi chảy quá trình kỹ thuật cho vay thu mua lúa gạo, cho vay xuất khẩu và thu hồi tiền về không bị mất mát, trừ hao, do ngân hàng xuất khẩu lơ mơ không biết tự bảo vệ và bảo vệ khách hàng của mình. Nói tóm lại là ngân hàng tổng hợp đầu mối nói trên, đảm bảo đủ tâm tuệ và hành để bảo vệ xuyên suốt từ chính mình, đến người nông dân trồng lúa, bằng cách thấu suốt hết mọi ngóc ngách trong chu kỳ, từ gieo hạt lúa, đến xuất khẩu, đều có mặt của ngân hàng, tức là từ thành phố cảng xuất khẩu, đến nông dân trong ruộng tại các tỉnh sản xuất và lưu thông lúa gạo.

Để thông suốt và có mặt như nói trên, ngân hàng phải có tư thế lớn, rất lớn, để đủ thực lực tài chánh tài trợ tất cả các khâu nói trên. Vì chỉ có tài trợ, mới buộc được người được vay khai báo mọi hoạt động của họ và kiểm tra tính chân thật của lời khai của họ. Mục đích là ở đầu mối, nông dân được vay làm mùa dễ dàng, đầy đủ, đúng lúc, để mua vật tư nông nghiệp mà người bán cũng là khách hàng vay của chi nhánh ngân hàng tức là nhà nhập khẩu, cũng là khách hàng vay của ngân hàng để nhập khẩu, để với sự giúp đỡ của Hội sở ngân hàng, được đặt hàng tận gốc để mua sỉ các vật tư nông nghiệp từ máy cày đến phân bón, thuốc trừ sâu… Như vậy, ngân hàng nhờ cho vay trực tiếp, có thể kiểm soát được các giá cả trong giây chuyền cung cấp, để bảo đảm người nông dân được mua đúng giá và trong trường hợp khan hiếm được ưu tiên cung cấp vật tư đã đặt mua.

Ở khâu tiêu thụ lúa thu hoạch của nông dân, ngân hàng cho vay thu mua từ hàng xáo, đến thương gia mễ cốc các tỉnh có gạo thặng dư lớn, cho đến các “vua” lúa gạo ở trung tâm xuất khẩu, như Saigon trước kia. Tất nhiên nhờ quan hệ cho vay, nên ngân hàng nắm được các mối cung cấp lúa gạo cho các “vua”, cũng như ở chi nhánh nắm được các mối cung cấp lúa gạo cho thương gia mễ cốc và qua các hàng xáo nắm được tình hình cung cấp lúa gạo từ nông dân và các địa phương, có hay không có vay ngân hàng.

Ở cấp nông dân, ngân hàng tổ chức những tổ liên bảo, giữa một nhóm nông dân, để đứng bảo lãnh nợ của nhau với ngân hàng. Đứng đầu, các tổ liên bảo trong xã, ngân hàng chọn một thanh niên trẻ, xốc vác, có qua lớp đào tạo của ngân hàng và được nhiều người có uy tín trong địa phương giới thiệu và bảo lãnh tinh thần, làm liên lạc viên kiểm tra. Họ được ngân hàng cấp vốn vay làm ăn với lãi suất ưu đãi, thậm chí số không. Ngược lại họ không được nhận bất cứ khoản tiền, quà cáp nào của các nông dân mà họ giúp đỡ thủ tục, kiểm soát sử dụng vốn vay và đôn đốc thu hồi nợ vay cho ngân hàng. Ai có khó khăn, họ đề nghị chi nhánh ngân hàng có biện pháp giúp đỡ, để khỏi lâm tình trạng không thể trả nợ. Như vậy,trong xã họ là người có uy tín lớn vì được chi nhánh ngân hàng tín nhiệm và trong nhiều dịp tiệc tùng của ngân hàng họ được mời, sánh vai với các khách hàng “gộc” của chi nhánh.

Trên đây không phải là chuyện Liêu trai mà là có thật. Đó là trường hợp của ngân hàng Việt Nam Thương Tín, tuy là quốc doanh, nhưng được quyền tự trị hoạt động theo luật pháp ngân hàng, như 32 ngân hàng tư nhân, thuộc 10 quốc tịch khác nhau. Vì là quốc doanh nên Việt Nam Thương Tín đặt hàng đầu công tác của mình là những việc chính phủ, các bộ thời ấy giao, như làm ngân hàng đầu mối tổng hợp tài trợ làm mùa và thu mua lúa gạo tập trung, để bảo đảm cung cấp cho tiêu thụ các thành phố lớn, miền Trung và Tây Nguyên. Công tác này là một cục xương mà anh em cán bộ, nhân viên phần đông là trẻ coi ngon như miếng sườn non, vì thỏa mãn được khát vọng yêu thương tận tụy trong lòng mỗi anh em, cũng như có dịp thi thố năng lực chuyên môn kinh doanh rủi ro của ngân hàng với lòng chính trực, thận trọng, bản lĩnh, mạnh dạn tin tưởng nhau từ trên xuống dưới. Quả Việt Nam Thương Tín xứng đáng là tình yêu của chúng tôi, nhờ đó sau 1975, tuy gặp khó khăn như mọi người, chúng tôi vẫn thương mến, giúp đỡ nhau, trên hết không làm bất cứ điều gì có thể làm hổ thẹn anh em. Tâm, tuệ, hành luôn là hành trang của những anh em còn ở lại. Trong tư thế riêng, mỗi người đều đóng góp tích cực cho đất nước trường tồn. Không có hành trang đó, chúng tôi hoặc đã đi xa, hoặc đã sống khác hơn.

No comments: