Monday, April 21, 2008

Vị đắng dâng trào

Lâm Võ Hoàng

Đọc bài “Bớt xuất khẩu để kềm giá gạo” (Tuổi Trẻ 4.4) ghi lại ý kiến của ông Chủ tịch Hiệp hội lương thực Việt Nam, người viết không thể không cảm thấy một vị đắng dâng trào. Ông nói trơn tru như một “em xi” (người dẫn chương trình), chuyên nghiệp. Ai nghe ông, tin ông ắt sẽ thấy khỏe khoắn như ngồi trong “tứ phương vô sự lâu”. Nào là “Tôi khẳng định giá gạo xuất khẩu sẽ ở mức cao kéo dài trong nhiều năm tới, càng chậm xuất khẩu gạo, càng có lợi về giá (?)… giá thành sản xuất lúa có tăng nhưng hiện bình quân chỉ khoảng 2.000 – 2.200 đồng/kg, trong khi giá bán lúa cao hơn nhiều lên tới 4.200 – 4.300 đồng/kg, như vậy người làm lúa được lãi gấp đôi rồi” (!).

Thế nhưng, ngay dưới bài của ông, là mẩu tin “giá lúa giảm nhẹ” của Ngọc Diện, được in trên nền màu hồng : “Những ngày qua giá lúa ở khu vực ĐBSCL có dấu hiệu chững lại, có nơi giảm 200 – 300 đồng/kg so với tuần trước. Cuối tháng trước giá lúa dài thường dao động từ 4.300 – 4.500 đồng/kg, thì chiều 3.4 ở An Giang, Cần Thơ, chỉ còn 4.200 đồng/kg… (thậm chí) tại Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, thương lái mua lúa dài thường tại sân phơi của nông dân chỉ với giá 4.000 – 4.100 đồng/kg. Tình trạng tranh mua cũng không như trước, trong khi người dân rất cần bán lúa để tái đầu tư cho mùa”.

Về ảnh hưởng của việc tăng giá vật tư nông nghiệp, Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, gióng lên một tiếng chuông hoàn toàn khác với tiếng chuông “nào ta hãy mừng vui!” của ông Chủ tịch tác giả của “người làm lúa được lãi gấp đôi rồi”. Thật vậy một đằng nói chung chung, không kèm theo ngày tháng của giá cả trong khi giá quốc tế, giá nội địa nhảy choi choi hàng ngày, thậm chí hằng giờ, đằng khác nói có chừng mực, có ghi chú ngày tháng của giá, có nêu rõ địa chỉ và loại lúa mua bán, chớ không phải lúa nào như lúa nào. Rõ ràng người ngồi trong bàn giấy thấy, biết và nói khác người tại chỗ hay ở trận tiền. Do vậy mới có chủ trương “bớt xuất khẩu để kềm giá gạo”, chủ trương này có lợi, gây hại cho ai?

Bớt xuất khẩu gạo, để làm gì?

Theo ông Chủ tịch, từ đầu năm tới giờ, ta chỉ giao được 800.000 tấn gạo trên 1.800.000 tấn đã ký và trong hai tháng tới phải giao một triệu tấn đã ký còn lại. Trong tình hình “lúa đông xuân đâu còn nhiều mà ký”, liệu các nhà xuất khẩu 1.000.000 tấn gạo còn nợ hợp đồng, có đủ tồn kho để giao hàng hay chưa? Hỏi như vậy không có nghĩa làm “gái góa ngày đêm lo việc thành đổ” (mặc dù) đã có vua xây”. Vì số lượng gạo phải giao hàng, nếu chưa đủ tồn kho, ắt phải trông cậy vào vụ mùa hè thu phía Nam vốn không như vụ đông xuân, thường gặp trắc trở do thời tiết, cũng như lũ chụp chẳng hạn, và vụ mùa đông xuân phía Bắc còn đang trên đà khôi phục toàn bộ diện tích sau đợt rét đậm vừa qua đã làm lúa chết hết. Nếu thời may mà “1 triệu tấn nữa phải giao trong hai tháng tới” đủ tồn kho và các doanh nghiệp chỉ cần “tập trung giao hàng” mà thôi thì vụ mùa hè thu trong Nam có thể lo cho phần chỉ tiêu tối thiểu còn lại của xuất khẩu gạo 2008, tức là 3,5 – 1,8 = 1,7 triệu tấn không khó tìm hợp đồng ký kết, vì thiếu gạo toàn cầu.

Như vậy ẩn số là số tồn kho thực để giải quyết số 1 triệu tấn gạo đã hợp đồng. Nếu khác với ước mong trên đây, tức là do tồn kho chưa đủ, mà các doanh nghiệp vẫn không ra tay mua vào cho đủ số, thì vụ mùa hè thu, vốn thất thế hơn đông xuân, khó có thể cõng trên lưng gầy hai mạng được và từ đó những bất cập khó lường cho xuất khẩu, thậm chí tiêu dùng gạo trong nước, như ở Thái Lan chẳng hạn. Do đó, Hiệp hội lương thực Việt Nam phải công khai số tồn kho thực tế dành cho một triệu tấn phải giao trong hai tháng tới. Bằng không dư luận có thể nghĩ rằng Hiệp hội đang chơi ván bài nào đó, như Khổng Minh tọa lầu năm xưa, bày ra chuyện bớt xuất khẩu để chờ sụt giá lúa nhiều hơn nữa mới ra tay mua vào để trả nợ. Vì một triệu tấn đâu có nhỏ. Cả hơn ba tháng từ đầu năm mà mới chỉ giao được 800.000 tấn, làm sao trong điều kiện “lúa đông xuân đâu còn nhiều”, vụ mùa hè thu “mới gieo sạ được khoảng 100.000ha”, giao đủ một triệu tấn trong hai tháng?

Mặt khác, người ta có thể nghĩ việc chưa vội mua vào không chỉ chờ lúa sụt giá thêm nữa, mà còn lý do khác để chậm mua là đỡ tiền lời ngân hàng, đỡ tiền kho vựa (nông dân giữ giùm), đỡ chim chuột hao hớt… Tới chừng “xả cảng” lúa gạo sẽ chạy vào tay Hiệp hội, chớ có đi đâu mất mà sợ?

Kềm giá gạo để làm gì?

Nước ta xuất khẩu gạo hạng nhì thế giới, nhưng nông dân ta vẫn nghèo. Vì ai cũng biết nông dân nếu không làm ruộng để tạo ra lúa gạo nuôi sống xã hội thì không biết làm gì khác. Chính vì biết như vậy mà mọi người tha hồ khai thác thất thế đó. Gánh nặng tiền lãi vay vốn ngân hàng và tý nhn bên ngoài, vật tư nông nghiệp không ngớt tăng giá, đã thế, trong môi trường u ám của xã hội nông thôn, với đủ thứ kềm kẹp và hàng chục khoản đóng góp ngoài nghĩa vụ thuế má... nông dân ta còn phải chờ bán được lúa mới có thể đầu tư cho mùa vụ mới. Đối với nông dân có một luật thép là giá lúa thấp cao gì cũng phải bán, vì nhà không đủ chỗ ở, có đâu chỗ chứa lúa chờ thời? Mặc dù vậy, khi gạo ra đô thị, do giá vượt quá sức mua của người dân ở đó, thì tiếng oán lại đổ xuống nông dân “ăn gạo không mất tiền”, cho nên mới có chánh sách kềm giá gạo.

Cục dự trữ quốc gia ở đâu rồi?

Trung Quốc có dân số đông nhất thế giới, gấp 15 lần Việt Nam, thế mà họ có Cục dự trữ quốc gia về gạo, hữu hiệu đến độ còn biết đưa gạo mục, mốc, hư sang bán ở các nước khác để thu hồi vốn. Không nghe nói dân họ bị đói kém, cho dù có đói kém thật. Vả chăng nếu họ thực sự đói kém, thì tại sao họ lại có gạo mốc thừa để đưa đi bán? Còn Cục dự trữ an toàn quốc gia của ta được sinh ra để làm gì, đã làm gì, mà Chánh phủ, thậm chí ông Chủ tịch Hiệp hội lương thực, phải lo “bớt xuất khẩu để kềm giá gạo” ? khiến cho nông dân bán không được lúa, làm lúa rớt giá trong khi Nhà nước thương dân cứ lo dân thiếu gạo ăn, đành phải bao cấp và phải giải quyết chuyện no đói của dân một cách tréo ngoe.

Tóm lại, như Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, cho rằng: “Hiện nay một số nơi giá lúa bắt đầu giảm, nhưng giá vật tư nông nghiệp lại tăng quá cao. Lúc trước, khi thấy giá lúa tăng, nông dân rất vui vì cân đối được giá vật tư nông nghiệp. Nhưng bây giờ bà con lo lắng trước vụ hè thu mới. Nhưng vài ngày qua, rất ít người mua lúa và giá lúa lại giảm” (không biết lấy gì đầu tư cho vụ hè thu).

Rõ ràng đây là một vị đắng dâng trào của một đứa con ĐBSCL, thuở bé bãi trường theo mẹ lên ruộng sống trong môi trường lam lũ nhà nông. Bây giờ già rồi mà vẫn phải kêu trời. Không mấy thuở trời cho giá gạo thế giới tăng cao để nông dân ta vừa có thể âu ca bán lúa, phục vụ xuất khẩu gạo, vừa cân đối tăng giá không ngừng của vật tư nông nghiệp, vừa đóng góp tăng cường, bình ổn số lượng gạo hàng hóa trên thế giới, gián tiếp làm giảm áp lực giá gạo tăng vọt ở các nước nghèo nhập khẩu gạo vì không biết trồng lúa. Thế nhưng do sự tắc trách của các bộ phận liên quan, chỉ biết ký giấy, chớ không nắm tình hình giao dịch sản lượng lúa gạo, cứ phú thác mọi sự cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam, khiến cho nông dân bơ vơ như gà mất mẹ, đành phải cam chịu, không những mất trớt hướt phần lợi lộc trời cho, mà còn lo âu, ngày đêm lậy trời cho sớm bán hết lúa để có tiền trả nợ và mua lúa giống, phân bón v.v... đầu từ gấp cho vụ mùa hè thu sắp đến. “Thật là một thiệt thòi lớn đối với nhà nông” (T.S Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL).

(Báo Công Giáo và Dân Tộc số 1653 ngày 18/04/2008)

No comments: